Ủy ban nhân dân tỉnh an giang

ban quản lý di tích văn hóa óc eo

thông tin cẦN BIẾT
  • Nhà trưng bày:

    Thứ 2 đóng cửa, còn lại tất cả ngày trong tuần phục vụ bình thường kể cả ngày lễ, tết.

    + Sáng: Từ 7 giờ 30 - 11 giờ 00

    + Chiều: Từ 13 giờ 30 - 17 giờ 00

  • Các điểm di tích:

    Mở cửa tất cả các ngày trong tuần

  • LIÊN HỆ ĐĂNG KÝ THUYẾT MINH

    Phòng Quản trị và Du lịch

    SĐT: 02963.878.156

    Email: banqldtvhoe@angiang.gov.vn

GIỚI THIỆU VỀ VĂN HÓA ÓC EO VÀ VƯƠNG QUỐC PHÙ NAM

09:00 29/04/2020

  

Di tích Óc Eo – Ba Thê đầu tiên được phát hiện bởi nhà khảo cổ người Pháp Louis Malleret năm 1944. Văn hóa Óc Eo là nền văn hóa bản địa gắn liền với sự tồn tại của Phù Nam – một vương quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á những năm đầu công nguyên. Phạm vi phân bố rộng khắp, không chỉ ở Nam Bộ Việt Nam, mà còn ảnh hưởng qua Campuchia, Thái Lan, Myanmar, và một phần Malaysia hiện nay. Tại Nam Bộ, nhiều di tích văn hóa Óc Eo đã được khai quật ở các tỉnh, thành phố như An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tiền Giang, Long An, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, … Và trung tâm của nền văn hóa Óc Eo chính là ở Óc Eo – Ba Thê. Từ những giá trị của các di tích và di vật được tìm thấy, ngày 27/09/2012, khu di tích Óc Eo – Ba Thê được thủ tướng công nhận là di tích quốc gia đặc biệt. Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng và là niềm tự hào của nhân dân An Giang.

Về đặc trưng của cư dân văn hóa Óc Eo, đầu tiên về việc ăn uống, thì cư dân Óc Eo ăn chủ yếu là lúa gạo. Bằng chứng là trong những mảnh gốm vỡ có vết tích của vỏ trấu. Nồi, Cà ràng – những vật dụng mà người Phù Nam sử dụng để đun nấu. Cà ràng là bếp lò, là vật dụng quen thuộc thường được những cư dân sống ven sông, ven biển, hay trên nhà sàn sử dụng. Một loại hình hiện vật rất đặc sắc, thể hiện sự thông minh của cư dân Óc Eo, đó chính là nắp đậy, nắp đậy được thiết kế lõm vào trong, với công dụng là để đậy khít hơn. Ngoài ra, những vật dụng dùng để đựng như bình, chai gốm, lọ, hũ cũng chiếm số lượng khá nhiều.

Về việc cư trú, cư dân Óc Eo sống trên các nhà sàn bằng gỗ; mái lợp lá hoặc ngói.

Để thuận tiện cho việc đi lại trên môi trường nhiều sông ngòi kênh rạch, cư dân ở đây chủ yếu dựa vào thuyền bè. Trên bộ họ vận chuyển bằng voi, trâu, bò… Các hình ngựa, hình bò được khắc trên những lá vàng được tìm thấy tại các di tích Đá Nổi, Gò Tháp, Gò Thành, Gò Xoài. Xương trâu bò và xương voi cũng được tìm thấy khá nhiều trong các di tích cư trú và kiến trúc đã minh chứng cho điều đó.

Về trang phục, thư tịch cổ Trung quốc để lại cho biết những nét cơ bản về cách ăn mặc của cư dân vào thời đại Óc Eo: phụ nữ mặc váy dài, phần trên để trần hoặc phủ kín; đàn ông đóng khố ngắn, phần trên để trần; cả nam lẫn nữ đều đeo nhiều đồ trang sức, bùa chú...

Theo Lương Thư (Trung quốc), tục chôn cất người chết của cư dân Phù Nam có 4 cách là hỏa táng (thiêu xác), thủy táng (thả xác xuống sông, biển), điểu táng (đưa xác lên đài cao cho chim rỉa xác) và thổ táng (mai táng huyệt đất). Các tục táng này cũng có ở Lâm Ấp (Chămpa), Mã Lai, Ấn Độ... Cho dù theo cách táng nào thì đằng sau những tập tục ấy chính  là ý tưởng của các cộng đồng đưa người chết về thế giới vĩnh hằng như thể là sự hòa nhập với thiên nhiên (điểu táng, thủy táng); sự thăng hoa bằng lửa (hỏa táng) hay trở về với đất mẹ (thổ táng).

Hầu hết những mộ táng khai quật ở thời kỳ Óc Eo đều là các khu hỏa táng với dạng phổ biến gồm một phần trung tâm hình khối dựng bằng gạch, đá. Ngoài ra tro cốt người chết cũng được đựng trong các chum nhỏ chôn ở những nơi cao ráo.

 

Những vật tùy táng của người chết cho thấy cư dân cổ quan niệm thế giới bên kia có thể giống xã hội hiện tại nên người chết cũng cần có bình, chum, đồ nghề thủ công, trang sức, vũ khí…

Phật giáo và Hindu giáo (thường được gọi là Bà la môn giáo) là hai tôn giáo chính trong văn hóa Óc Eo đều được truyền từ Ấn Độ sang.

Hindu giáo du nhập vào Đổng bằng sông Cửu Long từ đầu công nguyên với ba vị thần tiêu biểu là Visnu, Siva, Brama. Ngoài ra cư dân Óc Eo còn thờ các vị thần như Durga-Parati (vợ Siva), Laskmi (vợ Visnu), Thần đầu voi Ganessa (con Siva)… Thần Hari – Hara ra đời vào thời kỳ này bằng sự kết hợp của Visnu và Siva để tạo nên sức mạnh to lớn hơn nhằm vừa bảo vệ sinh mạng, tài sản (Visnu), vừa trừng phạt kẻ ác trong xã hội (Siva)… Thần Surya là thần mặt trời của xứ lạnh phương Bắc mặc áo khoác dài, mang ủng, đội mão, tay cầm hoa sen, mang vòng cổ tượng trưng cho ánh sáng mặt trời… Hình tượng các vị thần được tạo ra bằng nhiểu chất liệu như đá, đồng, thiếc, vàng, đất nung với nhiểu kích cỡ khác nhau được tìm thấy ở hầu hết các di chỉ Óc Eo chứng tỏ tính phổ biến của Hindu giáo.

Phật giáo du nhập cùng thời với Hindu giáo và có thời kỳ làm biến chuyển Hindu giáo. Một số tượng trong thần điện Hindu giáo được chuyển hóa sang tượng trong thần điện Phật giáo như các tượng thần Visnu chuyển hóa Di lặc hay Bồ tát 4 tay (Avalokitesvara), Di lặc 4 tay (Bodhisattva Maitreya)…

Gốm dùng trong tôn giáo chiếm số lượng rất ít nhưng rất độc đáo và tinh tế vì nó phản ánh được quan niệm tôn giáo của một tộc người. Gốm dùng trong tôn giáo gồm có bình kendi và kundika, chức năng chính là dùng để đựng sữa và nước thiêng.  Bình Kendi và kundika đều có nguồn gốc từ Ấn Độ, tuy nhiên  sự khác biệt giữa bình Kundika và bình kendi là chiều dài của cổ, hình dáng và chức năng của vòi bình. Vòi Kundika ngắn, đầu vòi rộng và dùng để đổ chất lỏng vào bình, còn vòi bình Kendi thường cong dài và dùng để đổ chất lỏng ra khỏi bình. Bình Kundika là tiền thân của bình Kendi. Tiếp theo là hiện vật bát bồng, có dạng chân cao, phần bát có dạng hình phễu, dùng để đựng hoa quả dâng lên cúng thần, phật.

Vật liệu dùng trong kiến trúc với các hiện vật như gạch, ngói, diềm ngói. Đây là những mảnh ngói phẳng bề mặt có rãnh trũng song song, dùng để thoát nước. Diềm ngói, chóp ngói những vật dụng dùng để trang trí trong kiến trúc tôn giáo.

Việc khai quật hàng loạt di chỉ từ Đồng Nai tới Kiên Giang mang về hàng ngàn hiện vật đá, mã não, thạch anh, thủy tinh….được chế tác thành vòng, nhẫn, bông tai, dây chuyền, hạt chuỗi, dùng làm đồ trang sức với nhiều màu sắc, kích cỡ, kiểu dáng khác nhau đã cho thấy “Thủy tinh là chất liệu người Óc Eo đã tự chế tác được. Hiện vật trang sức thủy tinh Óc Eo trong đó có nhẫn và các hạt chuỗi luôn được đánh giá cao về thẩm mỹ, kể cả đến bây giờ”. Đây là hình ảnh về đồng tiền trong văn hóa Óc Eo. Trên đồng tiền có chạm khắc hình mặt trời, hình mề đay. Và để dễ dàng cho việc trao đổi, buôn bán, họ đã cắt những đồng tiền làm hai, bốn, tám, mười sáu mảnh nhỏ.

Song song với nghề làm thủy tinh thì nghề kim hoàn cũng phát triển không kém. Đây là tủ trưng bày về nồi nấu kim loại và cốc rót kim loại. Kim loại thô được nấu trong nồi, sau đó chế qua cấc cốc nhỏ rồi chế vào khuôn tạo thành trang sức như hoa tay, vòng, nhẫn,…

Bàn nghiền và chày nghiền bằng đá là những vật dụng thường dùng của cư dân cổ Óc Eo dùng để nghiền hương liệu, bóc tách những hạt ngũ cốc cũng như dát mỏng những mảnh vàng.

Về giao thương, những thế kỷ đầu Công nguyên, văn hóa Óc Eo đã hình thành bằng sự kế thừa phát triển các yếu tố nội sinh và sự tiếp thu các yếu tố mới của nền văn minh Ấn Độ và Địa Trung Hải qua tiếp xúc với các thương nhân người Ấn, Ba Tư, La Mã… từ hàng trăm năm trước Công nguyên.

Óc Eo trở thành một cảng thị quan trọng bậc nhất trong khu vực lúc bấy giờ. Với hệ thống kinh rạch, sông ngòi dầy đặc trong nội địa, từ Óc Eo hàng hóa có thể vận chuyển đến nhiều vùng nay thuộc Nam Bộ (Việt Nam), Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia,…

Các loại tiền tệ, con dấu và hàng hóa các nước như tượng đồng, gốm Ấn Độ; gương đồng thời Hậu Hán (năm 25-220), tượng Phật bằng đồng thời Bắc Ngụy (năm 386-557); đồng tiền vàng hoàng đế La Mã như Antonius Pius (năm 138-161) và Marcus Aurelius (năm 161-180),… được tìm thấy trong các di tích Óc Eo cho thấy địa bàn giao lưu của cư dân cổ ở đây rất rộng lớn.

Có nhiều loại đồng tiền Phù Nam bằng bạc, kẽm; có đồng được cắt đôi, cắt tư, cắt tám, cắt 16 để làm tiền lẻ. Tiền Phù Nam không chỉ tìm thấy ở Đồng bằng sông Cửu Long mà còn hiện diện ở vùng ven biển vịnh Thái Lan, Myanmar, bán đảo Mã Lai. Điều này cho thấy một dòng thương nghiệp nối liền Óc Eo với Ấn Độ Dương bằng đường thủy từ vịnh Thái Lan qua eo biển Kra (Mã Lai) và có thể cả bằng đường bộ nội địa.

Thùy Trâm

các tin khác