Ủy ban nhân dân tỉnh an giang

ban quản lý di tích văn hóa óc eo

thông tin cẦN BIẾT
  • Nhà trưng bày:

    Thứ 2 đóng cửa, còn lại tất cả ngày trong tuần phục vụ bình thường kể cả ngày lễ, tết.

    + Sáng: Từ 7 giờ 30 - 11 giờ 00

    + Chiều: Từ 13 giờ 30 - 17 giờ 00

  • Các điểm di tích:

    Mở cửa tất cả các ngày trong tuần

  • LIÊN HỆ ĐĂNG KÝ THUYẾT MINH

    Phòng Quản trị và Du lịch

    SĐT: 02963.878.156

    Email: banqldtvhoe@angiang.gov.vn

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHỤC VỤ KHÁCH THAM QUAN TẠI CÁC BẢO TÀNG CÔNG LẬP

03:24 21/03/2022

Trần Thiện Khâm, Đào Kim Thu[1]

 

1. Dẫn nhập

Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản vô giá của 54 tộc người anh em. Dân tộc ta có truyền thống yêu nước và giữ nước được truyền qua hàng ngàn thế hệ, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm, truyến thống quý báu ấy sẽ còn được lưu giữ và trân trọng cho đến ngày hôm nay. Hiểu được, nhận thức được và để lưu truyền gìn giữ cho hiện tại và mai sau, thì ngành bảo tồn bảo tàng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, chỉ đạo và đổi mới trong Luật di sản và nhiều Văn kiện đại hội.

Hiện nay, bên cạnh việc phát triển về các lĩnh vực kinh tế, xã hội thì văn hóa cũng là một lĩnh vực được xã hội quan tâm và ngày càng chú trọng. Một trong những nơi giao lưu và phát huy tinh hoa di sản văn hóa mỗi dân tộc chính là bảo tàng. Bảo tàng có vị trí quan trọng trong việc lưu giữ và phát huy kho tàng di sản văn hóa của dân tộc.

2. Nội dung

          Bảo tàng ngày nay không còn chỉ là những ngôi nhà cất giữ những báu vật của loài người, nơi lưu giữ những ký ức của các dân tộc, các nền văn hóa, những ước mơ và hy vọng của con người trên toàn thế giới.

          Cùng với quá trình phát triển của xã hội, bảo tàng giữ vai trò ngày càng lớn trong đời sống xã hội: là thiết chế tổng hợp, đa chức năng, ở đó công chúng/ khách tham quan có thể học tập, nghiên cứu, giao tiếp, sáng tạo và nghỉ ngơi, giải trí. 

          Mục tiêu của bảo tàng là: hướng tới công chúng, vì công chúng và cho công chúng. Trong thế kỷ XXI, thử thách lớn nhất mà tất cả các bảo tàng phải đối đầu chính là sự khẳng định: “Các bảo tàng là để dành cho con người, và do đó tương lai của các bảo tàng phụ thuộc vào việc tự nâng cấp, tự phát triển để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Một bảo tàng thành công trong thế kỷ XXI phải là bảo tàng của công chúng/khách tham quan. Bởi thực tế là dù bảo tàng có sở hữu bộ sưu tập giá trị đến đâu mà không có người xem thì hiện vật chỉ là những di sản câm lặng, bảo tàng không có khách tham quan thì chỉ là những ngôi đền, tháp. Chỉ có phát huy giá trị của hiện vật thì bảo tàng mới khẳng định được vị thế của nó trong đời sống xã hội. Bảo tàng phải đáp ứng nhu cầu, mối quan tâm, kiến thức đa dạng và thỏa mãn nhu cầu giáo dục dành cho công chúng.

          Công chúng/khách tham quan giờ đây không còn hài lòng với việc đến bảo tàng chỉ đơn giản là nhìn ngắm nhìn các hiện vật quý được trưng bày trong các tủ kính. Họ mong muốn có được các cuộc trưng bày mà ở đó họ được tham gia, được thực hành, trải nghiệm cùng các hiện vật, để tìm hiểu kiến thức/thông tin và cũng không thể thiếu đó là nhu cầu giải trí.

Nghiên cứu khách tham quan cho thấy ngày nay các trưng bày bảo tàng cần phải vận dụng mọi ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại nhằm chuyển tải một cách hiệu quả nhất nội dung và thông điệp của trưng bày tới công chúng tham quan.Trưng bày bảo tàng cần cung cấp các quan điểm khác nhau, kết nối quá khứ với hiện tại và đảm bảo tính chính xác của thông tin. Đồng thời, các curator, cán bộ trưng bày phải thực sự sáng tạo để tạo ra các trưng bày, không gian trưng bày với sự đa dạng các hình thức tường thuật, kể chuyện, tương tác để khách tham quan không chỉ thưởng ngoạn hiện vật mà còn có thể trải nghiệm những câu chuyện gắn với hiện vật mà bảo tàng đang nắm giữ; tạo ra các ứng dụng để khách tham quan tham gia, trao đổi và chia sẻ ý kiến, câu chuyện và hiện vật của riêng mình với bảo tàng và ngược lại.

Hiện nay trên thế giới và Việt Nam có nhiều định nghĩa về Bảo tàng, mỗi định nghĩa đều có cách nghiên cứu riêng nhưng tầm quan trọng và ý nghĩa mang lại lợi ích cho xã hội và con người là vô cùng to lớn và quý giá.

Theo định nghĩa của ICOM (Hội đồng Bảo tàng quốc tế): “Bảo tàng là một tổ chức không có lợi nhuận, tồn tại lâu dài để phục vụ cho sự phát triển của xã hội, mở rộng đón công chúng. Bảo tàng thu nhận, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và tuyên tuyền nhằm mục đích giáo dục, học tập và thưởng thức. Bảo tàng là một bằng chứng vật chất xác thực về con người và môi trường xung quanh con người”.

          Theo quy định của Luật di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) thì bảo tàng là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người và môi trường sống của con người, nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng.

          Hệ thống bảo tàng ở Việt Nam hiện nay bao gồm bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập.

          Hệ thống bảo tàng công lập gồm có:

          a) Bảo tàng quốc gia;

          b) Bảo tàng chuyên ngành thuộc bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương;

          c) Bảo tàng chuyên ngành thuộc các đơn vị trực thuộc bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương;

          d) Bảo tàng cấp tỉnh.

          Bảo tàng ngoài công lập do tổ chức, cá nhân thành lập và tổ chức hoạt động khi được Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp giấy phép hoạt động theo quy định của pháp luật.

          Bảo tàng có các nhiệm vụ sau đây:

          a) Sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập hiện vật;

          b) Nghiên cứu khoa học phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa;

          c) Tổ chức phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ xã hội;

          d) Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của bảo tàng;

          đ) Quản lý cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;

          e) Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật;

          g) Tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan phù hợp với nhiệm vụ của bảo tàng;

          h) Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Như vậy, Bảo tàng có vai trò vô cùng quan trọng về mặt lý luận của ngành Bảo tàng học, có vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Mà mục đích chính là nhằm giáo dục con người và giúp con người minh chứng được nguồn gốc lịch sử của họ. Bảo tàng là một thiết chế văn hóa, một cơ quan văn hóa, khoa học, giáo dục con người.

Hiện nay, các Bảo tàng của Việt Nam như tại Hà Nội có Bảo tàng Hồ Chí Minh; Bảo tàng dân tộc học Việt Nam; Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam....; tại Thành phố Hồ Chí Minh có Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh; Bảo tàng chứng tích chiến tranh, bảo tàng Tôn Đức Thắng...đã có những bước phát triển nổi bật, về cách phục vụ, thuyết minh qua nhiều hình thức, trưng bày đa dạng khoa học; đặc biệt có nhiều nguồn đầu tư xây dựng phát triển nhiều loại hình bảo tàng... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách tham quan trong nước và quốc tế đến nghiên cứu, học tập, trao đổi kinh nghiệm... Tuy nhiên, đối với hoạt động Bảo tàng ở Việt Nam chúng ta cũng còn một số hạn chế so với các nước phát triển khác. Vì vậy, tôi có một số ý kiến để đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách tham quan bảo tàng, với hy vọng đem lại những ý tưởng mới có thể áp dụng cho bảo tàng ở Việt Nam:

          Thứ nhất: có chính sách đào tạo nguồn nhân lực cho Bảo tàng

          - Từng bước nghiên cứu, đổi mới nhận thức, nội dung và phương pháp đào tạo tổng kết kinh nghiệm và thực tiễn về ngành Bảo tàng học và đưa vào giảng dạy tại các trường Đại học. Nhằm tạo ra nguồn cán bộ Bảo tàng chất lượng, hiệu quả.

          - Cử cán bộ đi đào tạo tại các nước có các bảo tàng nổi tiếng như Mỹ, Pháp, Anh, Nga, Trung Quốc,...học hỏi kinh nghiệm và vận dụng từ các nước phát triển và lâu đời trong ngành bảo tàng là điều cần thiết và quan trọng.

          Thứ hai: Giải pháp trưng bày hiện vật

          Khoa học, tiêu biểu, có giá trị, áp dụng công nghệ thông tin, âm thanh hệ thống chiếu sáng hài hòa, rõ không tạp âm, ánh sáng cảm ứng chiếu thẳng vào hiện vật; không gian trưng bày phù hợp, thoáng, đẹp, các tủ trưng bày âm sát tường, mở rộng lối đi tham quan ...

          Thứ ba: Xây dựng thương hiệu Bảo tàng

          Thương hiệu là hình thức bên ngoài, tạo ra ấn tượng, thể hiện cái bên trong. Thương hiệu tạo ra nhận thức và niềm tin của công chúng đối với sản phẩm, dịch vụ và tổ chức, đơn vị cung ứng. Giá trị của một thương hiệu là triển vọng lợi nhuận mà thương hiệu đó có thể đem lại cho nhà đầu tư trong tương lai. Nói cách khác thương hiệu là tài sản vô hình của tổ chức, cá nhân1.

          Như vậy, đối với mỗi Bảo tàng cần phải xây dựng một thương hiệu, đặc trưng riêng để giúp không hòa lẫn với nhau. Một thương hiệu có thể làm nền sự phát triển rực rỡ của bảo tàng, tạo nên hình ảnh, thu hút các nhà đầu tư, tạo dựng lòng tin và chất lượng tốt đối với khách tham quan.

          Thứ tư: Phát triển Bảo tàng kết hợp phát triển Du lịch

          Du lịch hiện nay được xem là hoạt động phát triển có ý nghĩa về mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Du lịch phát triển sẽ thúc đẩy mọi mặt của đời sống địa phương phát triển. Trong bối cảnh giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng, phát triển Bảo tàng kết hợp phát triển Du lịch sẽ thu hút được khách tham quan, đồng thời quảng bá hình ảnh, thương hiệu đến với công chúng một cách nhanh chóng.

          Thứ năm: Phát huy chức năng giáo dục của bảo tàng

          Các nhà Bảo tàng học hiện đại còn khuyến cáo rằng trong tương lai chúng ta không nên quên giáo dục là một trong những chức năng chính của một bảo tàng và là lý do để bảo tàng tồn tại” trong cuốn“Lập kế hoạch thành công cho những dự án xây dựng bảo tàng” (Planning Successful Museum Building Projects) xuất bản năm 2009 tại Mỹ, các tác giả Walter L. Crimm, Martha Morris và  L.Carole Wharton đã khẳng định: Các bộ sưu tập, trưng bày và các chương trình giáo dục được coi là cốt lõi của một bảo tàng.

Với sự thay đổi về nhận thức từ chỗ bảo tàng lấy hiện vật làm trung tâm sang lấy cộng đồng xã hội làm trung tâmthì vai trò công tác giáo dục trong bảo tàng ngày càng được coi trọng, đẩy mạnh, tác động mạnh mẽ, tích cực đến các hoạt động khác của bảo tàng. Nó được coi là cơ sở xác lập chiến lược hoạt động phát triển của mỗi bảo tàng, đồng thời, căn cứ vào thế mạnh, đặc điểm riêng biệt và chức năng của mỗi bảo tàng cụ thể để đa dạng hóa các hình thức hoạt động phục vụ nhu cầu chính đáng của công chúng.

          Hoạt động giáo dục trong bảo tàng, với quan điểm coi khách tham quan là những người chủ động học tập, cũng có thể được gọi là hoạt động cung cấp cơ hội học tập cho công chúng tham quan bảo tàng. Theo Hiệp hội Bảo tàng Anh thì việc giáo dục, học tập trong bảo tàng là: “Học tập là một quá trình chủ động trải nghiệm. Đó là việc con người thực hiện khi họ muốn tìm hiểu về thế giới. Nó có thể bao gồm việc phát triển hoặc đào sâu về kỹ năng, kiến thức, sự hiểu biết, nhận thức, giá trị, ý tưởng và cảm xúc, hoặc tăng cường khả năng suy nghĩ. Học tập có hiệu quả dẫn đến sự thay đổi, phát triển và khao khát học hỏi thêm nữa.”(3)

          Bảo tàng, với lợi thế sở hữu các sưu tập hiện vật về lịch sử tự nhiên và xã hội cùng với những nội dung và câu chuyện liên quan đến các sưu tập sẽ thực sự là nơi tìm hiểu, học tập, làm giàu kiến thức hấp dẫn, hiệu quả. Để có được những chương trình giáo dục đáp ứng những mục tiêu như trên, bảo tàng cần có chiến lược xây dựng hoạt động trải nghiệm rõ ràng, khả thi, có sự đầu tư kinh phí, nguồn lực hợp lý và thích đáng. Đặc biệt, trong xu hướng hiện nay, khách tham quan không còn thụ động khi tham quan trưng bày, họ chủ động muốn tìm hiểu, sẵn sàng đối thoại, trao đổi để hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về nội dung được trưng bày trong bảo tàng. Do vậy, trước hết bảo tàng cần xác định rõ nhiệm vụ của bảo tàng là cung cấp các cơ hội học tập phục vụ công chúng chứ không phải là “giáo dục” ai về một nội dung nào đó. Với quan điểm này, các hoạt động, các chương trình giáo dục của bảo tàng sẽ hướng tới phục vụ nhu cầu của công chúng, với sự tham gia của công chúng trong cả quá trình xây dựng kế hoạch lẫn quá trình triển khai các hoạt động này.

          Và vì vậy, hoạt động truyền bá tri thức - giáo dục của bảo tàng không còn là sự chuyển giao một chiều từ người giáo dục (hướng dẫn, thuyết minh viên) sang người được giáo dục (khách tham quan) mà là sự trao đổi hai chiều, tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Người ta không chỉ quan tâm đến việc bảo tàng “dạy” gì cho  công chúng, mà quan trọng hơn là “công chúng học bằng cách trải nghiệm như thế nào”. Ở đây, công chúng là người học chủ động chứ không còn là người nghe thụ động nữa. Công chúng được tiếp cận nhiều chiều để tự rút ra những trải nghiệm, tự đúc kết những bài học, những kiến thức mới cho mình.

          - Quan điểm coi nhiệm vụ của bảo tàng là cung cấp các cơ hội học tập phục vụ công chúng cơ bản tương đồng với nội dung về Học tập suốt đời, được giới thiệu trong Báo cáo Học để làm Người(4) (1972) của UNESCO và đã được phát triển và công nhận rộng rãi trên thế giới. Theo Báo cáo này, việc học tập suốt đời diễn ra từ lúc nằm nôi đến khi qua đời, bao gồm học tập chính quy (formal), không chính quy (non-formal) và phi chính quy (informal). Trong đó tập trung vào ba trụ cột chính là kiến thức, kỹ năng và năng lực. Đồng thời, người học được nâng cao khả năng hành nghề, phát triển cá nhân, trở thành công dân tích cực và hòa nhập xã hội.

          Hoạt động giáo dục bảo tàng là nhằm cung cấp cho công chúng/khách tham quan cơ hội được mở rộng sự hiểu biết, trải nghiệm và sáng tạo.

          Trên thế giới và cả ở Việt Nam, trong những năm gần đây, hoạt động giáo dục bảo tàng đã có những thay đổi đáng kể dưới một số góc độ sau:

          + Về Công chúng: Có sự nghiên cứu, đánh giá, tìm hiểu nhu cầu, mong đợi và sự hài lòng; Thiết kế, xây dựng các chương trình dành cho công chúng ở các lứa tuổi, đối tượng khác nhau.

          + Về Chương trình: Không còn chỉ là những chuyến tham quan trưng thông thường mà tổ chức nhiều hoạt động khác nhau với nội dung, hình thức, cách thức đa dạng nhằm chuyển tải thông điệp giáo dục của bảo tàng đến công chúng, với phương châm: hấp dẫn, bổ ích, niềm vui và sáng tạo.

          + Sự hợp tác: Hoạt động giáo dục bảo tàng có sự phối hợp giữa bảo tàng với nhà trường, viện nghiên cứu, cộng đồng, gia đình, doanh nghiệp…

          + Công nghệ được ứng dụng trong các hoạt động giáo dục của bảo tàng.

Kết luận

          Với một số giải pháp mang tính chất định hướng, các nhà quản lý và ngành bảo tàng học cần nghiên cứu, đầu tư và phát triển để bảo tàng của Việt Nam sẽ có sắc vóc mang tầm quốc tế, thay đổi diện mạo nhằm phát huy vai trò bảo tàng về trưng bày, tuyên truyền, giáo dục, giới thiệu về lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam đến khách tham quan trong nước và quốc tế.

Chú thích: [1] Ban quản lý Di tích văn hóa Óc Eo tỉnh An Giang

 

 

Tài liệu tham khảo

          1. Các công trình nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, tập V (2005), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

          2. Nguyễn Đình Thanh (2007),  Bảo tàng – Di tích Một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nhà xuất bản văn hóa Thông tin.

3. Nguyễn Thị Huệ chủ biên (2010), Cơ sở bảo tàng học, Giáo trình dùng cho sinh viên đại học và cao đẳng ngành bảo tàng, Nhà xuất bản ĐHQG, HN.

 

4. Luật Di sản văn hóa và văn bản hướng dẫn thi hành (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội

 

5. Văn bản hợp nhất Luật di sản văn hóa số 10/VBHN-VPQH ngày 23 tháng 7 năm 2013 của Quốc hội (Luật di sản văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29 tháng 6 năm 2001 và và Luật 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa).

          6. Ths. Phạm Thị Mai Thủy (2020),  “Bảo tàng và hoạt động giáo dục bảo tàng (phần 1)”, Bảo tàng lịch sử Việt Nam http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3099/71423/bao-tang-va-hoat-djong-giao-duc-bao-tang-phan-1.html

 

các tin khác